Câu tôi lên!

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

VĂN PHÒNG CHỦ TỊCH NƯỚC CÔNG BỐ LUẬT DỰ TRỮ QUỐC GIA



VĂN PHÒNG CHỦ TỊCH NƯỚC CÔNG BỐ LUẬT DỰ TRỮ QUỐC GIA

Chiều ngày 14/12, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Giang Sơn đã công bố lệnh của Chủ tịch nước số 24/2012/L-CTN ngày 3-12-2012 về việc công bố Luật dự trữ quốc gia, đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20-11-2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013.
Ngày đăng: 19-12-2012
1644 lượt xem

Chiều ngày 14/12, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Giang Sơn đã công bố lệnh của Chủ tịch nước số 24/2012/L-CTN ngày 3-12-2012 về việc công bố Luật dự trữ quốc gia, đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20-11-2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013.


Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Giang Sơn chủ trì cuộc họp báo
Thay mặt Bộ Tài chính, Thứ trưởng Vũ Thị Mai giới thiệu những nội dung cơ bản Luật dự trữ quốc gia. Với 6 Chương, 66 Điều, Luật dự trữ quốc gia đã tạo khung pháp lý cao cho hoạt động DTQG, khẳng định và nâng vai trò của DTQG lên một tầm cao mới trong cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước.

Thứ nhất, Luật DTQG đã kế thừa các mục tiêu nêu tại Pháp lệnh DTQG là nhằm chủ động đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh; phục vụ quốc phòng, an ninh.

Thứ hai, Luật DTQG quy định một số chính sách của Nhà nước về DTQG  như:  chính sách về phát triển DTQG; chính sách về xây dựng DTQG bảo đảm thực hiện mục tiêu DTQG, phù hợp với khả năng cân đối của NSNN; chính sách đầu tư nghiên cứu phát triển khoa học - kỹ thuật, ứng dụng công nghệ bảo quản, công nghệ thông tin để hiện đại hóa hoạt động DTQG; chính sách huy động nguồn lực, khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động DTQG.


Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật dự trữ quốc gia
Thứ ba, Luật dành một số điều quy định nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý DTQG từ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, các Bộ, ngành quản lý DTQG và của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các quy định này nhằm làm rõ trách nhiệm phù hợp với phân công, phân cấp về quản lý DTQG, tạo điều kiện để các quy định của Luật DTQG được thực hiện thông suốt, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả DTQG. Luật DTQG cũng quy định cơ quan DTQG chuyên trách có nhiệm vụ tham mưu để Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước về DTQG; trực tiếp quản lý hàng DTQG theo quy định của pháp luật

Thứ tư, Luật DTQG quy định rõ các mặt hàng thuộc danh mục hàng DTQG phải đáp ứng được mục tiêu DTQG và đáp ứng một trong các tiêu chí: (i) là mặt hàng chiến lược, thiết yếu, có tần suất sử dụng nhiều, có tác dụng ứng phó kịp thời trong tình huống đột xuất, cấp bách; (ii) là mặt hàng đặc chủng, không thể thay thế; (iii) là vật tư, thiết bị, hàng hóa bảo đảm quốc phòng, an ninh mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét